Những nghi ngờ liên quan tới việc người Đức dùng doping trải dài từ những năm 1950 tới 1990 sau một nghiên cứu của Đại học Humboldt ở Berlin cho rằng ngân sách quốc gia đã tài trợ có hệ thống cho chương trình dùng chất bị cấm. Nghiên cứu cũng cho rằng 3 cầu thủ Đức, mà các nhà nghiên cứu không nêu tên, đã thua trận 2-4 ở chung kết World Cup 1966 trên đất Anh, lúc đó có trong người chất ephedrine bị cấm.
Nghiên cứu cho biết: “Một lá thư không đề ngày từ quan chức FIFA, tiến sĩ Mihailo Andrejevic thông báo với chủ tịch liên đoàn các VĐV thể thao Đức, tiến sĩ Max Danz, rằng trong các xét nghiệm doping do FIFA tiến hành cuối World Cup 1966, 3 cầu thủ Đức đã có dấu hiệu nhiễm ephedrine “nhẹ””. FIFA nói năm ngoái, khi vụ việc được phát lộ, rằng họ không biết gì về lá thư kể trên.
Hôm qua, LĐBĐ Đức cũng phủ nhận họ liên quan tới vụ việc. Nghiên cứu ám chỉ đội Tây Đức năm 1954, đã đánh bại "Những người Magyar ma thuật", đội tuyển Hungary, 3-2 trong trận chung kết được biết dưới cái tên "Điều thần kỳ Berne", đã dùng chất bị cấm. Theo đó, các cầu thủ không phải được tiêm Vitamin B như trước giờ nhiều người vẫn nghĩ, mà là Pervitin, một loại ma túy có cơ sở là amphetamine do Đức Quốc xã chế tạo để giúp binh lính chiến đấu tích cực hơn và lâu hơn.
Những hình ảnh tư liệu trận Đức thắng Anh 3-2 năm 1970
Loại thuốc này rất phổ biến trong thế chiến thứ hai. Gần như tất cả cầu thủ đều được tiêm thuốc. Trong vài người từ chối có Alfred Pfaff, sau này sẽ đeo băng đội trưởng Eintracht Frankfurt vào chung kết Cúp C1 1960. Ngoài ra còn có Richard Herrmann, một tiền vệ cánh, qua đời vì bệnh xơ gan 8 năm sau đó ở tuổi 39. Nghiên cứu, với tựa đề “Doping ở Đức từ 1950 tới nay” cũng cho rằng “các chất bị cấm” được đưa cho đội hình World Cup vô địch năm 1974 do huyền thoại Franz Beckenbauer đeo băng đội trưởng.
Nghiên cứu nói vấn đề chất bị cấm không chỉ dừng lại ở bóng đá, mà lan sang tất cả các môn thể thao Olympic, cho thấy vấn đề doping sau thế chiến ở Đức không chỉ giới hạn ở Đông Đức. Tài liệu 800 trang này cho thấy các chính trị gia kỳ cựu, bác sĩ và quan chức đều có liên quan. Bộ nội vụ cung cấp tiền cho các nghiên cứu việc triển khai dùng thuốc. Những tiết lộ này không hoàn toàn bất ngờ với thế giới thể thao, do Tây Đức cũng bị ám ảnh bởi thành công không kém nước láng giềng anh em bên kia bức tường Berlin.
Một quan chức thể thao cấp cao giấu tên nói trong nghiên cứu là trước Olympic Munich 1972 “điều quan trọng hơn tất cả là những tấm huy chương”. Quy mô của chương trình này, tuy nhiên, không so sánh được với việc sử dụng doping có hệ thống của Đông Đức. Nghiên cứu nói tiến sĩ Joseph Keul, trưởng nhóm bác sĩ của đoàn Tây Đức, qua đời năm 2000, đóng một vai trò chủ chốt. Trong đời hoạt động, ông đã đấu tranh quyết liệt để loại các chất steroid đồng hóa khỏi danh thuốc bị cấm.